Miếu Thờ Bình Tây Đại Tướng Quân Trịnh Phong Diên Khánh Nha Trang
Miếu thờ Trịnh Phong là nơi ghi nhớ công ơn của Bình Tây Đại Tướng Trịnh Phong - một người con của quê hương Khánh Hòa đã nêu cao tinh thần yêu nước, bị giặc Pháp xử chém vào những năm cuối thế kỷ XIX tại đầu cầu sông Cạn, thuộc địa phận xã Diên An. Đến ngày ngày 30/8/1991, xếp hạng thứ hạng Miếu thờ Trịnh Phong Nha Trang là di tích lịch sử lịch sử – văn hóa truyền thống cổ truyền giang sơn.
Miếu thờ Trịnh Phong Diên Khánh ở đâu?
Miếu thờ Trịnh Phong ở địa phận thôn Phú Ân Nam, xã Diên An, huyện Diên Khánh. Miếu nằm sát đường 23 tháng 10, cách ngã ba cải lộ tuyến Quốc lộ 1A khoảng 100 mét.
Để đi du lịch Nha Trang và khám phá những địa điểm mới thì Miếu Thờ Trịnh Phong là một gợi ý hấp dẫn. Từ trung tâm thành phố Nha Trang đi theo đường 23/10 về hướng ngã ba Thành (thuộc xã Diên An, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa), ai cũng có thể đến miếu thờ Bình Tây đại tướng Trịnh Phong của phong trào Cần Vương cạnh cây Dầu đôi cổ thụ. Cây Dầu đôi uy nghi hàng trăm năm tuổi đó đã chứng kiến bao thăng trầm lịch sử của vùng đất này.
Di chuyển đến Miếu thờ Trịnh Phong Diên Khánh
Trên đường 23-10 từ thị trấn Diên Khánh xuống TP. Nha Trang, ngay sát Vị trí đặt Cây Dầu đôi thuộc thôn Phú Ân Nam, xã Diên An có một ngôi miếu bé dại đơn sơ tọa lạc sát đường, mặt quay lại phía Nam, được nhân dân gọi là Miếu thờ Trịnh Phong.
Tiểu sử Bình Tây đại tướng quân Trịnh Phong
Trịnh Phong sinh ra và lớn lên tại thôn Phú Vinh, xã Vĩnh Thạnh, TP. Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống võ nghệ. Năm 1864, ông thi đậu Cử nhân võ học và được triều đình Nhà Nguyễn phong đến chức Đề đốc, nhậm chức tại Quảng Nam.
Năm 1885, hưởng ứng Chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, ông cùng với Lê Nghị, Trần Đường, Nguyễn Khanh, Phạm Chánh, Nguyễn Dị, Nguyễn Lương, Nguyễn Sum, Phạm Long, Nguyễn Trung Mưu thành lập Bình Tây cứu quốc đoàn với khẩu hiệu Tiểu tặc trừ gian bình quốc loạn, Hưng binh ứng nghĩa phục giang san kêu gọi cư dân Khánh Hòa đăng ký quân khởi nghĩa chống Pháp. Trịnh Phong được nhân dân tôn làm Bình Tây đại tướng lãnh đạo phong trào “Cần Vương” ở Khánh Hoà chống lại thực dân Pháp và thống lĩnh nghĩa quân đóng tại thành Diên Khánh.
Mùa thu năm 1885, quân Pháp đổ xô vào Nha Trang, Trịnh Phong giao thành Diên Khánh cho Lê Nghị, tự mình dẫn quân xuống đánh, bị thua phải bỏ Nha Trang chia binh làm 2, một nửa kéo về giữ thành Diên Khánh. Thành bị vây mấy tháng, Trịnh Phong phải thừa lúc đêm hôm mở vòng vây giải thoát, kéo quân ra hướng phía bắc phù hợp quân của Trần Đường tại núi Phổ Đà.
Quân Pháp sau lúc không chuyển biến tại Nha Trang và Diên Khánh, liên tiếp tiến đánh hướng phía bắc Khánh Hòa. Nhờ thế núi hiểm trở, nhờ sử dụng lối đánh du kích và sự ủng hộ của nhân dân, nghĩa quân cầm cự được gần 1 năm. Quân Pháp phải cầu viện binh ở SG.
Tháng 6/1886, Pháp sai thiếu tá De Lorme, công sứ Aymonier & đốc phủ sứ Trần Bá Lộc kéo đại binh ra Khánh Hòa. Tổng hành dinh ở núi Phổ Đà bị tấn công, Trần Đường bị giết, Trịnh Phong phục kích ở khoảng giữa Hòn Hèo & Hòn Khói, sử dụng hỏa công diệt trọn 01 toán quân lê dương. Nhân dân bị khủng bố không đủ can đảm làm cho con em gia nhập nghĩa quân và không đủ can đảm đồng tình lương thực, dẫn tới quân Cần Vương yếu dần và thua trận ở núi Ðá Ðen (Vạn Ninh), núi Tiên Du (Ninh Hòa), đèo Rọ Tượng.
Trong vòng không đầy ba tháng, Trần Bá Lộc đã dẹp yên được trào lưu Cần Vương ở Khánh Hòa. Đến cuối tháng tám năm 1886, Trịnh Phong bị bắt. Ngày 11/9/1886, ông cùng với 6 người khác, trong đó có Nguyễn Khanh, Phạm Chánh, Nguyễn Sum, Phạm Long bị xử trảm và gần một trăm người bị đày vào Cam Ranh. Sau khi phong trào “Cần Vương” thất bại, Trịnh Phong bị giặc Pháp xử chém tại đầu cầu sông Cạn. Nhân dân thương tiếc, tưởng nhớ ông nên đã thờ ông trong miếu.
Dấu ấn phong trào Cần Vương
Cây Dầu đôi này cao khoảng 30m, gốc to đến ba bốn người ôm và cành lá sum xuê tươi tốt. Dưới gốc Dầu, nhiều hàng quán ven đường cùng lữ khách đường xa đi qua được tán lá che nắng che mưa. Theo các vị cao niên ở huyện Diên Khánh, không ai biết rõ cây Dầu đôi bao nhiêu tuổi, nhưng khi xây dựng Thành Cổ Diên Khánh vào năm 1793 đã thấy cây Dầu đôi cao lớn vươn mình hiên ngang rồi.
Từ năm 1653, chúa Nguyễn Phúc Tần cho cai cơ Hùng Ngọc Hầu vào khai hoang rừng, mở mang bờ cõi. Khi thấy cây Dầu đôi to lớn vượt trội giữa rừng già, cai cơ hạ lệnh không chặt phá để tạo bóng mát. Trải bao thăng trầm lịch sử, cây Dầu đôi không biết từ bao giờ đã trở thành tên của cả vùng đất này. Ngôi miếu thờ thủ lĩnh Trịnh Phong (người lãnh đạo nghĩa quân Khánh Hòa hưởng ứng phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp xâm lược do vua Hàm Nghi khởi xướng) cạnh đó cũng hay được người dân gọi với cái tên: Miếu cây Dầu.
Được lưu truyền lại, Bình Tây Đại tướng Trịnh Phong là người làng Phú Vinh, nay thuộc xã Vĩnh Thạnh, thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hoà. Ông xuất thân trong một gia đình có truyền thống võ nghệ, từng đỗ võ cử dưới triều Tự Đức nhà Nguyễn và làm quan đến chức Đề đốc. Năm 1885, ông Trịnh Phong tham gia hưởng ứng phong trào Cần Vương chống giặc Pháp xâm lược và được nhân dân suy tôn làm Bình Tây Đại tướng quân trực tiếp chỉ huy Quân khu Nam, đóng quân tại Thành cổ Diên Khánh.
Nhờ có rừng dầu bạt ngàn trong vùng bao bọc, Bình Tây đại tướng Trịnh Phong đã nhiều lần lãnh đạo nhân dân Khánh Hòa mai phục đánh địch, chiếm được thành Diên Khánh. Nhưng do lực lượng quá mỏng, thủ lĩnh Trịnh Phong buộc phải cho quân lui vào vùng rừng Diên Khánh để bảo toàn quân số, sau đó rút quân ra Ninh Hòa (huyện phía Bắc Khánh Hòa) hợp quân với hai thủ lĩnh khác của phong trào Cần Vương Khánh Hòa là Trần Đường và Nguyễn Khanh.
Trước thế mạnh của địch, đại tướng Trịnh Phong bị địch bắt và sát hại, nên phong trào Cần Vương tại Khánh Hòa cũng bị dập tắt từ đó. Để tưởng nhớ người anh hùng này, nhân dân Khánh Hòa đã lập Miếu thờ Bình Tây Đại tướng Trịnh Phong bên cây Dầu đôi.
Chuyện ly kì về Miếu cây Dầu
Vì sao Miếu thờ Đại tướng Trịnh Phong không đặt tại Ninh Hòa - nơi ông bị giặc sát hại, mà lại được lập bên cạnh cây Dầu đôi, đó cũng là một câu chuyện ly kì được nhiều cao niên trong vùng kể lại. Miếu cây Dầu thờ Đại tướng Trịnh Phong được tạo dựng từ thập niên 90 của thế kỉ XIX, lúc đầu chỉ được biết đến là một thảo am nhỏ thờ vong linh của một người xấu số.
Theo lời của người xưa kể lại, vào thời gian Bình Tây Đại tướng Trịnh Phong bị sát hại, một buổi chiều nọ bà Trần Thị Đãi (ở ấp Phật Tĩnh, làng Phú Ân Nam, xã Diên An) bỗng hốt hoảng vì thấy một túi vải đựng đầu người treo lơ lửng trên một cành cây bên cạnh cây Dầu đôi. Nhân dân chẳng biết đó là ai, nhưng xót thương cho người xấu số nên họ đem đi chôn cất và lập am để thờ.
Nhân dân trong vùng tin rằng cái đầu trong túi vải kia chính là Đại tướng Trịnh Phong. Từ đó, am nhỏ bên cây Dầu đôi được nhân dân truyền gọi là Miếu Trịnh Phong
Một câu chuyện khác không kém phần ly kì mà ngày nay một số cụ già trên 70 tuổi sống ở vùng làng Phú Ân Nam, xã Diên An vẫn hay kể. Vào thời Pháp thuộc, tại Khánh Hòa có Viện Pasteur ở Nha Trang và Viện vaccine tại Suối Dầu (huyện Diên Khánh) để nghiên cứu, chế tạo thuốc.
Một ngày nọ, các nhà khoa học đưa chuột bạch thí nghiệm từ huyện Diên Khánh về thành phố Nha Trang nghiên cứu, thì chuột xổng ra ngoài, chạy vào vùng dân cư gây bệnh dịch hạch cho cả vùng. Bệnh lan rộng làm nhiều người chết nhưng không có cách nào chữa trị. Lúc này, nhân dân cử các bô lão lập đàn cúng tế tại cây Dầu đôi và sau một thời gian ngắn thì bệnh dịch hết hẳn. Từ đó, nhân dân làng Phú Ân Nam tin rằng Bình Tây Đại tướng quân Trịnh Phong đã hiển linh phù hộ cho dân làng “tai qua nạn khỏi”.
Đó là những câu chuyện ly kì được lưu truyền trong dân gian giải thích về nguồn gốc sự linh thiêng của Miếu thờ Đại tướng Trịnh Phong bên cây Dầu đôi hàng trăm năm tuổi. Trải qua bao thăng trầm, cây Dầu đôi vẫn cứ hiên ngang vươn mình giữa đất trời Diên Khánh như một chứng nhân lịch sử một thời nhân dân ta anh dũng chống giặc ngoại xâm.
Kiến trúc tại miếu thờ Trịnh Phong
Miếu thờ Trịnh Phong xưa kia là một cái miếu nhỏ, được xây dựng dưới gốc cây Dầu Đôi, một cây cổ thụ có một không hai ở Diên Khánh. Nhân dân quanh vùng thường gọi là “Miếu cây Dầu Đôi”. Ban đầu, miếu được xây dựng đơn giản, nhà tranh, vách đất, trải qua thời gian, miếu đã bị hư hỏng nhiều, qua nhiều lần trùng tu, sửa chữa miếu được xây dựng lại như hiện nay.
Suốt một thế kỷ qua, tuy nhiên thờ Trịnh Phong, nhưng trong miếu không để bài vị thờ, bởi vì vì nếu với chính quyền trực thuộc thực dân phong kiến, Trịnh Phong là đối thủ cạnh tranh trực tiếp không đội trời chung. Song cảm tình của nhân dân Diên Khánh nếu với Trịnh Phong vẫn còn lưu truyền mãi mãi…
Di tích Miếu Trịnh Phong có tổng diện tích 639,1m2. Miếu được xây theo lối phong cách xây dựng một gian hai chái, ba lối đi ra vào được gia công theo kiểu thượng song hạ bản, cấu tạo khung gỗ mang nét đặc thù di tích lịch sử truyền thống cổ truyền ở Khánh Hòa. Bái đường lát gạch bát tràng, cao hơn nữa sân khoảng 30cm, không còn tường bao mà chỉ có 04 hàng chân cột bao gồm 04 cột cái và 14 cột quân.
Miếu quay mặt về hướng Tây, trông lên đỉnh Hòn Dung cao ngất, thành lập vào thời gian các năm 90 thế kỷ XIX, ban đầu là am thảo bé dại. Thời điểm đầu thế kỷ XX, dân làng xây lại miếu. Miếu giờ đây làm dễ dàng và đơn giản, lợp mái tôn.
Bốn cột cái tạo thành hai bộ vì nóc cấu tạo kiểu vì kèo, các thanh kèo phụ , đấm phụ và khuyết phụ ăn mộng từ cột cái chạy ra đầu các cột quân. Hệ mái lợp ngói âm khí và dương khí, đỉnh mái đắp hình “Lưỡng long chầu nguyệt”. Chính giữa bái đường đặt 1 ban thờ gỗ dễ dàng và đơn giản, nhưng biểu lộ sự cổ kính, tráng lệ và trang nghiêm.
Chánh điện treo 01 bức hoành phi được làm bằng gỗ khắc chữ Hán Nôm “Vạn An miếu”. Hệ cửa thiết kế kiến thiết theo kiểu thượng song hạ bản. Giữa Chính điện đặt ban thờ Cộng đồng, hai bên đặt cặp lọng vải, bên trên ban thờ treo 1 bức chấn bằng vải. Giáp với tường hồi phía đằng sau là khám thờ được làm bằng gỗ được chạm trổ rất tinh xảo và khắc chữ Hán Nôm “Thần”
Bốn cột gỗ vuông đỡ hệ mái Chánh điện, trên thân cột chạm khắc hai cặp câu đối bằng chữ Hán Nôm và được sơn son thếp vàng; ở phía ở bên trên chạm trổ hoa văn hình hoa lá. Đầu dư của các thanh kẻ và kèo cũng được chạm khắc cách thức điệu tạo nên sự mềm mại và mượt mà trong di tích lịch sử, phía bên trong Chính điện treo hai đạo sắc phong của vua Thành Thái (1901) và Khải Định ( 1924). Cả hai sắc phong tuy nội dung khác nhau nhưng đều có ý ca ngợi ân đức người có công với nước, với nhân dân: “Đại đức khôi tinh phò chi thần”.
Hiện nay, Miếu thờ “Bình Tây đại tướng Trịnh Phong” được Ban quản lý trông coi, nhang khói hằng ngày. Mỗi năm, đúng vào ngày 16 tháng 3 âm lịch, chính quyền và nhân dân đều tổ chức cúng rước Bình Tây Đại tướng Trịnh Phong rất trọng thể với lòng thành kính. Hàng năm, di tích lịch sử tổ chức cúng Xuân vào trong ngày 16/03 âm lịch. Cứ 3 năm lại cúng đại lễ một lần.
Bên cạnh đó, ở khu mộ phần, ngoài mộ của ông còn sinh tồn 02 ngôi mộ của thân phụ và thân mẫu. Khu mộ được tôn tạo năm 2005 và năm 2012.
Trải qua nhiều thời gian, miếu đã qua vô số lần được tu bổ, tôn tạo, thuở đầu đây chỉ là am thờ bé, có thiết kế bằng tranh tre nứa lá. Đợt tu bổ miếu lớn nhất vào thời điểm năm 2003, nhân ngày kỉ niệm Khánh Hòa 350 năm thành lập tỉnh. Miếu Trịnh Phong đã được góp vốn đầu tư chi phí tu bổ các hạng mục công trình xây dựng: xây tường bao quanh di tích lịch sử, nghi môn, Bái đường, Chánh điện, nhà Đông. Năm 2013, tu bổ phần mái, thay một vài cột gỗ tại Bái đường.
Ghi nhận các chi phí lịch sử – văn hóa truyền thống cổ truyền của di tích lịch sử, năm 1991 Bộ văn hóa truyền thống cổ truyền truyền thống cổ truyền – Thông tin đã ban hành đưa ra quyết định số 1548 – QĐ ngày 30/8/1991, xếp hạng thứ hạng Miếu thờ Trịnh Phong Nha Trang là di tích lịch sử lịch sử – văn hóa truyền thống cổ truyền giang sơn.